Dự án trong bài viết này, một sân bay ở Canada, được quản lý bởi một đơn vị quản lý dự án do chủ đầu tư chỉ định và được hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn bên ngoài. Năm ngành nghề chính có liên quan: kiến trúc, kỹ thuật kết cấu, kỹ thuật dân dụng, kỹ thuật MEP (cơ khí, điện và hệ thống ống nước) và hỗn hợp. Các công ty tham gia vào dự án đã thành lập một nhóm dành riêng cho dự án; theo đúng quan điểm lý thuyết đã được vạch ra trong tài liệu dự án, bao gồm người quản lý dự án (sau đây viết tắt thành PM) và người quản lý BIM (BIM Manager – sau đây viết tắt thành BM) cho từng lĩnh vực, ngoại trừ nhà thầu thi công không có BM riêng (xem Hình dưới).
Trên thực tế, mỗi công ty sử dụng hệ thống phân cấp và tổ chức của riêng mình, nhưng kế hoạch thực thi BIM đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của các BM. Từ quan điểm lý thuyết, những trách nhiệm này chủ yếu liên quan đến việc quản lý nội dung của mô hình, kiểm soát chất lượng và điều phối 3D. Trên thực tế, công ty kiến trúc và công ty MEP đã chỉ định những người chuyên trách (ngoài PM) giữ vai trò này trong tổ chức của họ. BM do công ty kỹ thuật kết cấu chỉ định dường như có vai trò tổng quát hơn, thậm chí không khác gì mấy so với PM. Anh ta được hỗ trợ bởi một điều phối viên (coordinator) BIM – người chịu trách nhiệm quản lý mô hình BIM nội bộ.
Trên thực tế, vai trò của các BM không thực sự giống nhau giữa bộ môn này với bộ môn khác. BM do công ty kiến trúc chỉ định có cả vai trò kỹ thuật và quản lý. Anh ta chịu trách nhiệm với việc tải lên hàng tuần các mô hình kiến trúc và sự tích hợp của chúng với các mô hình khác. BM này xác định trước các yếu tố cần được kiểm tra để phát hiện xung đột nội bộ và liên ngành. BM này cũng đảm bảo rằng mỗi nhà thiết kế tiến hành kiểm soát chất lượng nội bộ của họ đối với mô hình kiến trúc sau khi làm việc trong tuần.
Công ty MEP có một hệ thống phân cấp độc đáo do tính chất phức hợp của hoạt động công việc của họ. BM được chỉ định được phối hợp với nhóm trưởng BIM dành riêng cho từng nhánh (thông gió, điện, hệ thống ống nước, v.v.), để cùng nhau tổ chức công việc cho cả nhóm. BM kiểm tra trực quan các mô hình MEP. Ngoài việc đảm bảo rằng các kỹ thuật viên MEP kiểm tra chất lượng mô hình của họ, BM thực hiện công việc quan trọng là quản lý và sửa các cảnh báo trong phần mềm Revit. Mục đích là để sản xuất các mô hình có ít lỗi nhất có thể.
BM do công ty kỹ thuật kết cấu chỉ định đóng một vai trò tổng quát hơn so với hai BM kể trên. Anh ta làm việc với PM để lập kế hoạch và tổ chức công việc được thực hiện bởi các kỹ sư kết cấu. BM cũng đảm bảo chất lượng kết xuất ý tưởng 2D do các nhà thiết kế của anh ấy cung cấp mà không có bất kỳ trách nhiệm thực sự nào về nội dung của các mô hình 3D. Vai trò này thuộc về điều phối viên BIM chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng các mô hình. Vai trò điều phối viên BIM ở đây khá giống với vai trò BM ở các công ty khác.
Nhà thầu thi công cũng chỉ định hai BM cho dự án để dẫn dắt chiều 4D và 5D.
Dự án xây dựng sân bay được nghiên cứu ở đây cho thấy sự kết tinh của quy trình con thông tin xung quanh các BM, tạo ra hai cực lãnh đạo riêng biệt trong dự án. Đầu tiên là liên quan đến kế hoạch dự án do PM thể hiện. Nó dựa trên việc quản lý các hoạt động của dự án theo cấu trúc phân chia công việc (WBS). Hệ thống quản lý thứ hai, liên quan đến kế hoạch thực thi BIM, được thể hiện bởi BM và chủ yếu dựa trên việc quản lý thông tin dự án. Kết quả là, trong khi các BM tập trung vào luồng thông tin dựa trên mô hình, thì các PM dường như không cảm thấy thoải mái với mô hình và tập trung vào công việc và luồng nguyên vật liệu. “PM chịu trách nhiệm chính trong việc đệ trình các tài liệu và tập trung vào tỷ lệ hoàn thành công việc (…) PM chưa bao giờ tham gia vào điều phối 3D,” một thành viên nhóm MEP cho biết. BM của dự án đi sâu hơn: “Do PM thiếu kiến thức và quy trình về BIM, anh ta không thể quản lý các nhóm của mình theo quy trình công việc cần thiết cho BIM. (…) PM cũng không biết khi nào anh ấy phải gọi cho tôi để tư vấn cho anh ấy trong việc phân bổ các vai trò và nhiệm vụ BIM cho nhân viên của mình một cách hợp lý”.
VBN trích và dịch từ bài báo khoa học của Conrad Boton và Daniel Forgues (2018)
Xem toàn văn tại: https://www.hindawi.com/journals/ace/2018/7259659/